Các nhà tư tưởng vô thần cổ điển của thời kỳ Khai Sáng, các triết gia như Frederick Nietzsche và Ludwig Feuerbach, đã dạy rằng mọi kinh nghiệm tôn giáo chỉ đơn giản là sự phóng chiếu của con người. Chúa không tồn tại. Chúng ta tạo ra Chúa, và chúng ta tạo ra Ngài theo hình ảnh và sự giống chúng ta, cuối cùng là để phục vụ nhu cầu của chúng ta. Chúng ta tạo ra khái niệm về Chúa bởi vì chúng ta cần một Chúa cho mục đích của riêng mình. Hơn nữa, những gì chúng ta tin là Lời Chúa, sự mặc khải thiêng liêng (kinh thánh, tín điều và giáo điều) cuối cùng đều là sự phóng chiếu của con người.
Điều này đúng đến mức nào?
Phần lớn họ đúng, không phải ở chỗ Chúa không tồn tại, mà là chúng ta luôn định hình và bóp méo ý niệm về Chúa và lời Chúa để phục vụ nhu cầu của riêng mình. Chúng ta có Lời Chúa trong Chúa Kitô và trong Kinh thánh, nhưng chúng ta luôn định hình nó sao cho phù hợp với nhu cầu của mình. Đó là lý do tại sao chúng ta có rất nhiều tôn giáo và giáo phái Kitô khác nhau. Đó cũng là lý do tại sao (thật trùng hợp ngẫu nhiên) Chúa luôn ghét những người giống chúng ta và luôn yêu những người giống chúng ta yêu.
Khi những người vô thần nói với chúng ta rằng Chúa là một hình ảnh phản chiếu của con người để phục vụ nhu cầu của chúng ta, họ đang giúp chúng ta bởi vì họ đang soi gương, trong đó chúng ta có thể thấy rằng, trên thực tế, chúng ta luôn luôn định hình và bóp méo mặc khải thiêng liêng để nó có lợi cho chúng ta. Những lời chỉ trích của họ gây áp lực buộc chúng ta phải làm rõ quan niệm của mình về Chúa và sự mặc khải thiêng liêng.
Nhưng, mặc dù họ có thể đúng 90%, nhưng họ sai 10%, và 10% đó tạo nên tất cả sự khác biệt. Trong 10% đó, chúng ta để Chúa tuôn chảy vào cuộc sống của mình theo cách mà chúng ta không thể định hình hay bóp méo trải nghiệm mà chỉ có thể đón nhận nó một cách thuần khiết.
Điều này xảy ra trong cái mà các nhà thần bí gọi là “đêm tối của tâm hồn”, và cụm từ đó ám chỉ những thời điểm trong cuộc sống của chúng ta khi các khả năng tự nhiên về trí tưởng tượng, trí tuệ và tình cảm (liên quan đến Chúa và đức tin) của chúng ta rơi vào bế tắc, tê liệt và không thể hoạt động. Mọi cách tưởng tượng và suy nghĩ trước đây của chúng ta về Chúa giờ đây đều trở nên trống rỗng, giả tạo và vô dụng. Chúng ta không còn có thể tưởng tượng rằng Chúa tồn tại, cảm thấy mình như những người vô thần, và không thể tìm cách thoát khỏi sự bất lực đó.
Tình trạng bất lực đó, khi chúng ta không còn có thể tưởng tượng Chúa hay cảm nhận sự hiện diện của Chúa một cách cảm xúc, thực ra là một món quà. Tại sao? Bởi vì khi các khả năng tự nhiên của chúng ta bị tê liệt, chúng ta cũng bị tê liệt trong khả năng tưởng tượng về Chúa. Giờ đây, chúng ta chỉ có thể đón nhận Chúa như Chúa là, chứ không phải như chúng ta tưởng tượng. Chúng ta không còn khả năng định hình hay bóp méo trải nghiệm của mình.
Ví dụ điển hình nhất cho điều này, tất nhiên, là Thứ Sáu Tuần Thánh, thời điểm trong lịch sử mà các sách Phúc Âm cho chúng ta biết trời trở nên tối tăm vào giữa trưa. Thứ Sáu Tuần Thánh là “đêm tối của tâm hồn” tột cùng đối với những người theo Chúa Giê-su.
Họ đã theo Chúa, lắng nghe lời Ngài, mặc khải của Ngài; nhưng, bất chấp những nỗ lực liên tục của Chúa Giê-su nhằm sửa đổi quan điểm của họ, họ đã định hình và bóp méo con người và lời Ngài để phù hợp với quan niệm riêng của họ về những gì họ mong muốn ở một Đấng Mê-si-a. Điều họ mong muốn là một siêu nhân thần thánh, người sẽ tiêu diệt mọi kẻ thù, chói lọi trong vinh quang và mang lại vinh quang cho họ.
Thứ Sáu Tuần Thánh đã hoàn toàn hủy hoại họ. Chúa Giê-su đã chết một cách khủng khiếp, bị lột trần, bị sỉ nhục, bị đánh đập, bất lực, bị coi như một tội phạm. Điều đó đã phá vỡ mọi kỳ vọng của họ về hình ảnh một Đấng Mê-si-a nên là. Không có vinh quang trần thế, chỉ có sự sỉ nhục, và không có sự phô trương công khai quyền năng thần thánh. Điều đó đã hoàn toàn phá vỡ sự hiểu biết tôn giáo của họ.
Họ đã bị choáng váng, theo đúng nghĩa đen. Mọi quan niệm họ có về một Đấng Mê-si-a nên như thế nào đều bị đảo lộn. Họ câm lặng trong trí tưởng tượng, không thể tưởng tượng được làm thế nào tất cả những điều này lại có thể có ý nghĩa. Thế giới tôn giáo của họ đã trở nên đen tối ngay giữa ban ngày. Thật vậy, phải mất vài năm (và nhờ sự thấu hiểu của Thánh Phao-lô) thì ánh sáng mới xuất hiện trở lại, trước khi ý nghĩa của Thứ Sáu Tuần Thánh được hé lộ cho họ, trước khi nó trở nên có ý nghĩa.
Nhưng rồi nó đã xuyên thủng một cách rõ ràng, không hề bị bóp méo, bởi vì đêm tối đức tin đã làm họ tê liệt vào Thứ Sáu Tuần Thánh đã khiến họ hoàn toàn bất lực về mặt tưởng tượng, cảm xúc và trí tuệ trong việc diễn giải những gì được nói với họ qua cái chết bất ngờ và nhục nhã của Chúa Giêsu. Do đó, họ không thể bóp méo trải nghiệm của mình mà chỉ có thể đón nhận nó.
Trong một cuốn sách đáng chú ý, Thiên Chúa Bị Đóng Đinh, Jurgens Moltmann viết: “Đức tin của chúng ta bắt đầu tại điểm mà những người vô thần cho rằng nó phải kết thúc. Đức tin của chúng ta bắt đầu với sự ảm đạm và quyền năng, đó là đêm của thập giá, sự bỏ rơi, cám dỗ và nghi ngờ về mọi thứ hiện hữu! Đức tin của chúng ta phải được sinh ra ở nơi nó bị bỏ rơi bởi mọi thực tại hữu hình; nó phải được sinh ra từ hư vô; nó phải nếm trải sự hư vô này và được nếm trải theo cách mà không một triết lý hư vô nào có thể tưởng tượng được.” Đó là trải nghiệm của Thứ Sáu Tuần Thánh, và đó là trải nghiệm mà các nhà thần bí gọi là “đêm tối của tâm hồn”. Và chính trong bóng tối đầy áp lực của trải nghiệm đó, Thiên Chúa có thể tuôn chảy vào cuộc sống của chúng ta mà không bị bóp méo.